Biện chứng đông y: Phong hàn vào lạc, khí huyết không thông, kinh mạch tắc nghẽn.
Cách trị: Khư phong tán hàn, thông kinh hoạt lạc.
Đơn thuốc: Kháng phong thấp thang.
Công thức: Chế xuyên ô 10g, Quế chi 10g, Khương hoạt 10g, Phòng phong 10g, Bào sơn giáp 10g, Kỳ xà 10g, Chế nhũ hương, Một dược, mỗi thứ 10g, Tế tân 3g, Ma hoàng 3g, Ngô công 4 con.
Sắc uống, mỗi ngày một thang.
Hiệu quả lâm sàng: Lương XX, nữ, 28 tuổi, công nhân, ngày 2-4-1976 được bệnh viện xí nghiệp chẩn trị. Bệnh nhân đau di chuyển các khớp toàn thân, hơi sưng từng chỗ, rên rỉ liên tục, nằm liệt giường đã hơn 1 tháng. Tây y chẩn đoán là thấp khớp cấp, chữa không khỏi. Chồng mang đến khoa đông y. Khám thấy chất lưỡi đỏ nhạt, rêu trắng hơi bẩn, mạch trầm trì, thử máu: huyết trầm 40mm/giờ. ASLO 1250 đơn vị, chữa bằng thuốc khư phong tán hàn, thông kinh hoạt lạc. Cho uống “Kháng phong thấp thang”, đúng cǎn nguyên bệnh, chỉ uống 5 thang, các chứng giảm hẳn. Lại uống tiếp bài này 5 thang nữa. Lúc khám lại, cùng chồng đi bộ đến, đã hết đau đớn phù nề, mạch tế bình, chất lưỡi đỏ nhuận, rêu trắng tan hết. Kiểm tra lại huyết trầm 4mm/giờ, ASLO 6225 đơn vị. Dùng bài trên bỏ bớt Sơn giáp, Xuyên công, Kỳ xà, Ma hoàng, thêm Đương quy, Hoàng kỳ mỗi thứ 15g, Bạch thược, Tần giao mỗi thứ 10g. Theo dõi 4 nǎm, chưa thấy tái phát.
Bàn luận: Y học hiện đại cho rằng thấp khớp có liên quan với nhiễm liên cầu khuẩn tan huyết týp A. Khuẩn thể và các chất bài tiết của liên cầu khuẩn có tính kháng nguyên rất cao, kích thích cơ thể sản sinh ra kháng thể, hình thành phức hợp miễn dịch kháng nguyên kháng thể, khi phức hợp miễn dịch này đọng lại ở các khớp thì sinh ra chứng viêm khớp. Đối với bệnh này, y học hiện đại chưa có cách điều trị đặc hiệu, chỉ xử lý triệu chứng. Trong khi chữa bệnh này chúng tôi tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc biện chứng luận trị của đông y tìm ra gốc bệnh, quý hồ tinh nhất, cốt sao đạt được cái tinh của phép biện chứng, phép chữa trị phải tinh, thuốc dùng phải tinh. Như ca bệnh này là phong hàn thấp tí, nhưng chủ yếu là phong hàn, cách trị ắt tinh nhất ở “ôn”. Dùng các vị thuốc khư phong tán hàn, thông kinh hoạt lạc, không vì lý do phong thấp nhiệt cần chống nhiễm khuẩn mà dùng bừa các thuốc “thanh” còn thuốc thuộc loại trùng có thể có tác dụng xua tan các phức hợp miễn dịch.
THẤP KHỚP CẤP
Biện chứng đông y: Phong thấp và nhiệt đánh lộn, lan khắp các khớp, khí huyết bị tắc nghẽn.
Cách trị: Sơ phong thông lạc, thanh nhiệt lương huyết.
Đơn thuốc: Tang phòng thang.
Công thức: Tang chi 47g, (sắc trước), Xuyên khung 15g, Ti qua lạc 12g, Sinh địa 24g, Phòng phong 9g, Câu đằng 12g, Ngưu tất 9g, Hoàng bá 9g, Bạch thược 12g, Nguyên sâm 12g, Tần giao 12g. Sắc uống, mỗi ngày một thang.
Hiệu quả lâm sàng: Lư XX, nam, 28 tuổi, nông dân. Thân thể cao lớn, vốn thích ǎn nhậu các thứ cay táo nhiệt, trung tuần tháng 12 nǎm 1974 ngoại cảm phát sốt, phải điều trị 7 ngày, bệnh lui nhưng hai chân đau mỏi, cử động khó chịu, dần dần co quắp, trở mình khó khǎn, cuối cùng nằm liệt giường không dậy được, đã trị đông tây y tới nửa tháng không thấy chuyển biến tốt. Ngày 6 tháng 1 nǎm 1975, người nhà đem đến điều trị, thấy hai chân cả đùi lẫn bắp đều co quắp, đau và nóng, không co duỗi cử động gì được, nằm liệt giường, ǎn uống, đại tiểu tiện đều cần có người giúp đỡ. Miệng khô, đái vàng, đại tiện bí, chất lưỡi đỏ rêu vàng, mạch huyền tế sác. Bệnh do thích ǎn nhậu hút chất cay. Kinh lạc trước có nhiệt ẩn náu, lại gặp ngoại cảm phong hàn, thấp tà quấy phá, nhiệt ở lý vì ngoại tà bao vây nên uất lại, khí huyết mất sự tuyên thông, lại kéo triền miên lâu ngày, tà khí từ ngoài vào cùng với nội nhiệt ở mãi không đi, hóa hỏa thương âm, tổn hại tân dịch, làm cǎn mạch mất sự tư dưỡng mà gây bệnh.
Phép chữa chứng bệnh này là phải sơ phong thông lạc, thanh nhiệt lương huyết, dùng bài “Tang phòng thang”, hai ngày thì ra mồ hôi, đi ngoài được, bệnh hơi giảm, vẫn dùng bài thuốc đó bỏ Tần giao, ngày thứ sáu thì đau đớn giảm hẳn, nằm ngồi được, ngày thứ mười có thể ra khỏi giường đứng lên, chống gậy tập đi. Bài thuốc trên thêm Xuyên mộc qua 12g, Ngũ gia bì 9g, chữa 1 tháng khỏi như bình thường tuy vẫn còn thấy vùng lưng tức tối vô lực, phải dùng đến các thuốc tư âm bổ thận, dùng liền 7 ngày để củng cố về sau.
THẤP KHỚP CẤP
Biện chứng đông y: Thể chất dương thịnh, trong có nhiệt ẩn náu, phong hàn thấp tà quấy nhiễu.
Cách trị: Khư phong thấp, thanh nhiệt giải độc.
Đơn thuốc: Khư phong lợi thấp hoạt huyết (uống) thuốc rửa hoạt thông (rửa ngoài).
Công thức: Khư phong lợi thất hoạt huyết phương: Đương quy 9g, Hồng hoa 6g, Tần giao 9g, Phòng phong 9g, Tang kí sinh 12g, Mộc qua 9g, Ngưu tất 9g, Uy linh tiên 9g, Tì giải 9g, Thương truật 9g, Phục linh 9g. Sắc uống, mỗi ngày 1 thang.
Thuốc rửa Hoạt thông: Sinh địa 15g, Đơn bì 9g, Xích thược 9g, Ngân hoa 15g, Tử hoa địa đinh 15g, Hoàng bá 9g, Mộc thông 9g, Ti qua lạc 9g, Sắc nước ngâm tẩm chỗ bị bệnh mỗi ngày 2-3 lần.
Hiệu quả lâm sàng: Lưu X, nữ, thanh niên, đến khám đầu tháng 10 nǎm 1978. Mắt cá chân sưng nóng và đau, không đi lại được, khớp gối cũng đau, không nghĩ đến ǎn uống, bệnh đã hơn 20 ngày. Mạch tế sác, lưỡi sạch không rêu. Xét nghiệm máu lắng 54mm/giờ. Chẩn đoán lâm sàng là thấp khớp cấp. Đã dùng một ít thang thuốc, ngoài ra đã dùng “Thuốc rửa Hoạt thông” để rửa nhưng hiệu quả không rõ. Sau đó đổi sang uống “Khư phong lợi thấp hoạt huyết phương”, nhưng dặn vẫn rửa ngoài bằng “Thuốc rửa Hoạt thông”. Dùng thuốc đến ngày 21 tháng 10 mắt cá chân đã hết sưng, hết đau, nhưng khớp đầu gối có vẻ còn sưng đau. Dặn kiên trì uống thêm ít thang nữa nhằm đạt công hiệu đầy đủ. Hạ tuần tháng 11 nǎm ấy, anh của người bệnh đến cho biết cô em dùng thuốc xong đã khỏi bệnh ngay, tốc độ máu lắng giảm xuống bình thường, công tác trở lại.
Bàn luận: Thấp khớp là thuốc phạm trù “tí chứng” của đông y. Tí là có ý nghĩa bịt kín, ứng với trường hợp kinh lạc cơ biểu của người ta bị phong hàn thấp khí quấy rối, khí huyết không thông, cho nên các khớp đau đớn, lại thêm tê mỏi đều gọi là tí chứng. Có một loại nhiều tí, là do thể chất dương thịnh, trong thì có nhiệt ẩn náu, tuy có gặp phong hàn thấp tà nhưng vẫn có nhiều biểu hiện kiểu nhiệt. “Kim quỹ dực” nói: tạng phủ kinh lạc trước có chứa đầy nhiệt, mà gặp phong hàn thấp khí bên ngoài đến, nhiệt là hàn tà, khí không thông, hàn lâu ngày hóa nhiệt, ắt sinh tí nung đốt mà sinh bực bội. Bệnh của họ Tì là chứng bệnh này. Cho dùng Đương quy, Hồng hoa là để hoạt huyết, Tần giao, Phòng phong, Tang ký sinh. Tì giải là các thứ khư phong thấp. Mộc qua lợi cân cốt; Ngưu tất làm mạnh lưng gối; Uy linh tiên chủ về các chứng tì ngoan (ngoan cố); Thương truật, Phục linh làm khô tì lợi thấp. Lại dùng các thức thanh nhiệt giải độc sắc lên ngâm rửa để cho tính thuốc do lỗ chân lông mà đi vào, trong ngoài phối hợp mà trị bệnh, mới có kết quả tốt.